KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY KHỞI NGHĨA NAM KỲ (23/11/1940 - 23/11/2015)

KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY KHỞI NGHĨA NAM KỲ (23/11/1940 - 23/11/2015)

 

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Ở Ðông Dương, thực dân Pháp phát-xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta, chĩa mũi nhọn vào Ðảng Cộng sản. Sự chà đạp và tước đoạt của thực dân Pháp đối với Nhân dân ta lên đến cực điểm, cùng mưu mô đầu hàng thỏa hiệp với phát-xít Nhật đã đặt ra vấn đề sống còn của các dân tộc Ðông Dương. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng diễn ra từ ngày 6 đến 8tháng 11 năm 1939, tại Bà Ðiểm (Hóc Môn - Gia Ðịnh) đã xác định: Trong hoàn cảnh mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của các dân tộc Ðông Dương. “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Nghị quyết của Hội nghị được phổ biến tới các địa phương, như một luồng gió mới tiếp thêm sinh khí cho phong trào cách mạng trên cả nước.

Từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1940, Ðảng bộ Nam Kỳ liên tiếp tổ chức nhiều cuộc họp để bàn chủ trương và gấp rút lãnh đạo các tầng lớp Nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Ðến giữa tháng 11 năm 1940, trước tình hình phong trào cách mạng sôi sục, tinh thần phản chiến trong binh lính người Việt lên cao, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay Nhân dân. Ngày 21 tháng 11 năm 1940, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các cấp bộ đảng nhất loạt phát động Nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ, ngày 22 tháng 11 năm 1940.  

Hội nghị Trung ương Ðảng họp tại Ðình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 06 đến 09 tháng 11 năm 1940, đã quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa vì điều kiện chủ quan và khách quan chưa chín muồi. Ðồng chí Phan Ðăng Lưu trở về truyền đạt quyết định của Trung ương cho Xứ ủy Nam Kỳ. Nhưng khi Đồng chí Phan Ðăng Lưu về tới Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã ban hành tới các địa phương, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch.

Cả Nam Kỳ rung chuyển dưới sức nổi dậy của quần chúng cách mạng. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở 20/21 tỉnh, thành phố ở Nam Kỳ, kéo dài từ đêm 22 rạng sáng 23 tháng 11 đến ngày 31 tháng 12 năm 1940, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long... Lực lượng vũ trang vàNhân dân đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường, cắt dây điện thoại... Ở Vĩnh Long, chính quyền cách mạng cấp quận đã được thành lập tại Vũng Liêm. Ở Mỹ Tho, chính quyền cách mạng ở vùng khởi nghĩa tồn tại trong 40 ngày. Một số nơi, Nhân dân lập tòa án cách mạng xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, xóa các khoản nợ, tịch thu thóc gạo của địch chia cho dân nghèo và nuôi nghĩa quân. Trong bão táp cách mạng, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu được giương cao trong các cuộc biểu tình, tiến công đồn bốt ở Mỹ Tho (vùng Long Hưng, Long Ðịnh), Gia Ðịnh (vùng Hóc Môn), Vĩnh Long (vùng Bà Càng), Cà Mau, Chợ Lớn, Tân An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, Long Xuyên, Thủ Dầu Một...

Tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Thực dân Pháp khủng bố khốc liệt những người khởi nghĩa. Hàng nghìn người bị xử tử, bị đày ra Côn Ðảo và các trại tập trung Bà Rá, Tà Lài... Pháp cũng nhân cơ hội này hành hình nhiều đồng chí cán bộ chủ chốt của Ðảng bị bắt từ trước khởi nghĩa: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu...

Mặc dù thất bại do điều kiện chưa chín muồi, nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ có ý nghĩa rất to lớn. Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ “là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Ðông Dương”. Cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của Nhân dân các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Ngày 14 tháng 01 năm1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 163-SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất cho Ðội quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940 “đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với kẻ địch và đã biểu dương được ý chí quật cường của dân tộc”. Ðó là sự khắc ghi của dân tộc đối với công lao và sự hy sinh của quân và dân Nam Kỳ.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã đào tạo và rèn luyện một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng của Ðảng, gương mẫu chiến đấu hy sinh vì độc lập của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân. Hàng vạn Nhân dân đã được thử thách trong đấu tranh, để từ đó tiếp tục theo Ðảng  thực hiện cuộc vận động giải phóng dân tộc tiến tới Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Mang tính chất của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tính Nhân dân rộng rãi và sâu sắc, khởi nghĩa Nam Kỳ là minh chứng sinh động cho chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Ðảng được đặt ra từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11 năm1939 với phương pháp đấu tranh “vũ lực” là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo. Ðồng thời, khởi nghĩa Nam Kỳ cũng là cơ sở thực tiễn để Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì diễn ra 5 (năm) tháng sau đó, quyết định “thay đổi chiến lược” đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, trước hết cũng như hoàn thiện con đường chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Ðô Lương, Ðảng ta chủ trương phải phát huy tính tích cực, chủ động cách mạng, phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, để khi thời cơ đến, có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương để mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Ðặc biệt, từ trong tiến trình chuẩn bị và diễn ra khởi nghĩa, lần đầu thiết chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được đề cập trong truyền đơn rải ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc” được viết trên các băng-rôn treo trước trụ sở các ủy ban cách mạng ở Long Hưng, ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong khởi nghĩa Nam Kỳ đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, biểu tượng của tinh thần và ý chí đấu tranh cách mạng của Nhân dân Nam Kỳ. Ngọn cờ đỏ sao vàng sau đó đã được Ðảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn làm biểu tượng của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh và đến ngày 09 tháng 11 năm 1946, chính thức là “Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được ghi trong Hiến pháp, thông qua tại kỳ họp Quốc hội thứ hai (khóa I).

Tuy thất bại, nhưng hiện thực hào hùng của khởi nghĩa Nam Kỳ 23tháng 11 năm 1940 đã để lại những bài học quý giá. Ðó là bài học về xây dựng thực lực cách mạng gắn với nắm bắt thời cơ; bài học về khơi dậy và nhân lên sức mạnh vĩ đại từ sự hiệp lực, đồng tâm của quần chúng; bài học về phối hợp địa phương với cả nước, về nghệ thuật giành và giữ chính quyền nhân dân... Ðặc biệt nổi lên bài học về xây dựng Ðảng. Ðảng bộ Nam Kỳ mới 10 tuổi đã phát động được một cuộc khởi nghĩa long trời lở đất chính vì đã sớm nắm bắt và vận dụng đường lối của Ðảng, xây dựng được hệ thống tổ chức cơ sở Ðảng, tổ chức nhân dân rộng khắp, tạo dựng được một đội ngũ cán bộ đảng viên trung thành, dũng cảm và tiên phong gương mẫu, luôn luôn gắn bó với Nhân dân, tin tưởng ở sức mạnh của Nhân dân, hòa mình trong Nhân dân mà dẫn dắt Nhân dân tiến lên.

Kỷ niệm 75 năm Ngày Nam Kỳ khởi nghĩa, trong lúc toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta đang thi đua lập thành tích chào mừng Ðại hội lần thứ XII của Ðảng. Bối cảnh lịch sử và những nhiệm vụ cụ thể trong mỗi thời kỳ khác nhau, song trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Ðảng đối với dân tộc không thay đổi. Chủ trương tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng mà Ðại hội lần thứ XII định hướng cho toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta chính là sự tiếp nối tinh thần phấn đấu, hy sinh không mệt mỏi và cũng là phát huy bài học vô giá của thế hệ chiến sĩ cộng sản, những người con ưu tú tận tụy với Nhân dân thời “Nam Kỳ khởi nghĩa” để lại cho thế hệ hôm nay.

Phát huy tinh thần Khởi nghĩa Nam Kỳ, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh huy động mọi nguồn lực, quyết tâm hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X đề ra, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, xây dựng Thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình, xứng đáng là Thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh - Thành phố Anh hùng./.